ĐỀ CƯƠNG TUYÊN TRUYỀN KỶ NIỆM 50 NĂM NGÀY GIẢI PHÓNG MIỀN NAM, THỐNG NHẤT ĐẤT NƯỚC (30/4/1975 - 30/4/2025)
Ban hành kèm Hướng dẫn số 01 -HD/BTGDVTW, ngày 21/02/2025 của Ban Tuyên giáo và Dân vận Trung ương
I. BỐI CẢNH TÌNH HÌNH
Sau chiến tranh thế giới thứ hai, đế quốc Mỹ trở nên giàu
có và hùng mạnh nhất thế giới tư bản, đứng ra giữ vai trò giám sát, can thiệp
vào các vấn đề quốc tế để bảo vệ cho cả hệ thống đế quốc chủ nghĩa đã bị suy
yếu nghiêm trọng và lâm vào khủng hoảng trước sự ra đời và lớn mạnh nhanh chóng
của hệ thống xã hội chủ nghĩa với trụ cột là Liên Xô, Trung Quốc. Đây là nhân
tố mới, làm thay đổi tương quan lực lượng toàn cầu, có lợi cho phong trào cách
mạng thế giới; buộc Mỹ phải thực hiện chiến lược toàn cầu nhằm chống lại các
trào lưu cách mạng, đàn áp và phá hoại phong trào độc lập dân tộc, ngăn chặn sự
phát triển của chủ nghĩa xã hội, đồng thời tranh giành vị trí và ảnh hưởng với
các đế quốc khác.
Với vị trí chiến lược quan trọng trong khu vực Đông Nam Á
và trước sự tiến công mạnh mẽ của cách
mạng Việt Nam, ảnh hưởng sâu sắc đối với phong trào giải phóng dân tộc trên thế
giới, là ngọn cờ tiêu biểu cho sự kết hợp các trào lưu cách mạng của thời đại;
đế quốc Mỹ xác định Việt Nam là điểm nóng
bỏng nhất, có vị trí sống còn trong tuyến ngăn chặn chủ nghĩa cộng sản nên đã
tích cực can thiệp vào chiến tranh Đông Dương ngay từ đầu những năm 50 thế kỷ
XX. Một mặt, Mỹ ra tay giúp Pháp, mặt khác âm mưu thay thế Pháp để độc chiếm
Đông Dương. Sau khi thực dân Pháp thua trận, Mỹ đã vi phạm trắng trợn Hiệp định
Giơ-ne-vơ 1954, vội vã lập ra khối quân sự Đông Nam Á và hất cẳng Pháp, xâm
chiếm miền Nam hòng đánh bại cách mạng Việt Nam, nhằm lập phòng tuyến ngăn chặn
và đẩy lùi chủ nghĩa xã hội ở vùng Đông Nam Á, bao vây, uy hiếp và chặn đứng
bước tiến của chủ nghĩa xã hội ở các nơi trên thế giới.
Về phía ta, mục tiêu độc lập dân tộc, thống nhất Tổ quốc,
đưa cả nước tiến lên theo con đường xã hội chủ nghĩa, xây dựng cuộc sống hòa
bình, ấm no, hạnh phúc và phồn vinh là nguyện vọng thiêng liêng, là sự nghiệp
chính nghĩa của toàn thể Nhân dân, cũng là mục tiêu cơ bản, lâu dài của cách
mạng Việt Nam. Nhận thức rõ vị trí, tầm quan trọng của việc kết nối cách mạng
nước ta với cách mạng thế giới, trước hết là với các nước xã hội chủ nghĩa, ngày 14/01/1950, Chủ tịch Hồ Chí Minh tuyên bố với các nước trên thế
giới: “Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng
hoà sẵn sàng đặt quan hệ ngoại giao với Chính phủ nước nào trọng quyền bình đẳng,
chủ quyền lãnh thổ và chủ quyền quốc gia của nước Việt Nam, để cùng nhau bảo vệ
hoà bình và xây đắp dân chủ thế giới”,
từ đó Trung Quốc, Liên Xô và một loạt nước xã hội chủ nghĩa và dân chủ nhân dân
đã ra tuyên bố công nhận Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, thiết lập quan hệ
ngoại giao, ủng hộ và viện trợ vật
chất cho cuộc đấu tranh chính nghĩa của Nhân dân ta.
Với thắng lợi qua các chiến dịch và Cuộc tiến công chiến
lược Đông - Xuân 1953 - 1954 của quân và dân ta mà đỉnh cao là chiến thắng
lịch sử Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu,
chấn động địa cầu” ngày 7/5/1954 đã buộc thực dân Pháp ngồi vào bàn đàm
phán, ký Hiệp định Giơ-ne-vơ về đình chỉ chiến sự ở Việt Nam, rút quân khỏi
nước ta, công nhận độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam; tuy
nhiên trong bối cảnh tình hình chính trị thế giới lúc bấy giờ, đất nước tạm
thời bị chia cắt làm 2 miền, lấy vĩ tuyến 17 làm ranh giới; miền Nam vẫn phải sống dưới ách thống trị của chủ nghĩa
thực dân mới của Mỹ. Với chân lý “Không có gì quý hơn
độc lập, tự do”, “Nước Việt Nam là một, dân tộc Việt
Nam là một”, “Nam Bộ là máu của máu Việt Nam, là thịt của thịt Việt Nam”, toàn thể dân tộc Việt Nam trước sau
như một đoàn kết đồng lòng, quyết đánh và quyết thắng đế quốc Mỹ trở thành tư
tưởng lớn của thời đại, để hoàn thành cho kỳ được mục tiêu Tổ quốc thống nhất,
đồng bào Nam - Bắc sum họp một nhà.
Chính vì vậy, “nước Việt Nam ta trở thành nơi tập trung
các mâu thuẫn cơ bản của thế giới và cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của Nhân
dân ta trở thành cuộc đọ sức điển hình, thành tiêu điểm của cuộc đấu tranh vô
cùng quyết liệt giữa cách mạng và phản cách mạng trên thế giới, là cuộc chiến
tranh giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc mang tính chất thời đại rất sâu sắc”.
Đó là nguồn gốc sâu xa, là nguyên nhân trực tiếp và cũng là bản chất của cuộc
chiến tranh giữa nhân dân Việt Nam với đế quốc Mỹ xâm lược.
II. CÁC GIAI ĐOẠN TRONG CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ CỨU NƯỚC CỦA DÂN TỘC
1.
Giai đoạn từ tháng 7/1954 đến hết năm 1960
Theo Hiệp định Giơ-ne-vơ 1954,
việc ngừng bắn, tập kết, chuyển quân và chuyển giao khu vực được thi hành trong
vòng 300 ngày, sau hai năm sẽ thực hiện tổng tuyển cử để thống nhất đất nước.
Tuy nhiên, ngay từ những ngày đầu tiên, đế quốc Mỹ, thực dân Pháp và chính
quyền Ngô Đình Diệm tìm mọi cách phá hoại việc thi hành Hiệp định, cố tình
khiêu khích, trì hoãn việc ngừng bắn trên các chiến trường; dụ dỗ và cưỡng ép
gần 1 triệu đồng bào miền Bắc di cư vào Nam; tháo dỡ, mang đi hoặc phá hoại máy
móc, dụng cụ, tài sản công cộng nhằm làm tê liệt, gây khó khăn cho ta trong
việc tiếp quản vùng giải phóng ở miền Bắc; rải truyền đơn, tài liệu xuyên tạc
chính sách của Đảng và Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa nhằm lung lạc quần
chúng, gây hoang mang trong Nhân dân. Thông qua chính quyền tay sai Ngô Đình Diệm, Mỹ tập trung thực hiện chính
sách "tố cộng, diệt cộng" đàn áp, khủng bố phong trào yêu nước, trả
thù những người kháng chiến cũ, tiêu diệt cơ sở cách mạng ở miền Nam, ban
hành Luật 10/59 biến miền Nam thành nhà tù, trại giam, trại tập trung,
cách mạng miền Nam bị dìm trong biển máu.
Khi
kết thúc cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, Nghị quyết của Hội nghị Ban Chấp
hành Trung ương Đảng lần thứ 6 mở rộng (tháng 7/1954) xác định “Đế quốc Mỹ là kẻ thù chính của nhân dân yêu
chuộng hòa bình thế giới, và hiện đang trở thành kẻ thù chính trực tiếp của
nhân dân Đông Dương”.
Trước tình thế mới, Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã bố trí một số
cán bộ, đảng viên ở lại miền Nam để lãnh đạo phong trào đấu tranh, đồng thời
thực hiện việc chuyển quân, đưa hàng vạn con em, chiến sĩ, đồng bào, cán bộ ở
miền Nam ra Bắc học tập, nhằm đào tạo đội ngũ cán bộ phục vụ xây dựng xã hội
chủ nghĩa ở miền Bắc, cũng như chuẩn bị lực lượng cho cuộc đấu tranh giải phóng
miền Nam và tái thiết đất nước sau chiến tranh; lãnh đạo quân và dân cả nước
thực hiện đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược: cách mạng xã hội chủ
nghĩa ở miền Bắc, xây dựng miền Bắc thành căn cứ vững mạnh của cách mạng
cả nước và cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam nhằm giải phóng miền
Nam khỏi ách thống trị của đế quốc Mỹ.
Thực hiện nhiệm vụ trên, ở miền Bắc, Đảng ta tích cực chỉ
đạo triển khai những biện pháp nhằm nhanh chóng ổn định, sớm tổ chức cuộc
sống mới sau chiến tranh. Sau kế hoạch 3 năm
(1955-1957) khôi
phục kinh tế, hàn gắn vết thương chiến tranh, kế hoạch 3 năm (1958-1960) cải tạo
xã hội chủ nghĩa, xây dựng và củng cố miền Bắc thành cơ sở vững chắc cho đấu
tranh thống nhất nước nhà, miền Bắc đã hoàn thành về cơ bản công cuộc cải tạo xã hội chủ
nghĩa, căn bản xoá bỏ chế độ bóc lột, bước đầu xây dựng, phát triển kinh tế,
văn hoá, xã hội theo con đường đi lên chủ nghĩa xã hội.
Ở miền Nam, cuộc đấu tranh diễn ra vô cùng khó khăn,
ác liệt, nhưng Nhân dân ta vẫn một lòng theo Đảng, kiên cường, bất khuất chống
áp bức, khủng bố, bảo vệ lực lượng cách mạng. Tháng 01/1959, Nghị quyết
Trung ương 15 ra đời, chủ trương chuyển cách mạng miền Nam từ đấu tranh chính
trị sang đấu tranh chính trị kết hợp với đấu tranh vũ trang, dùng bạo lực cách
mạng chống lại bạo lực phản cách mạng, khởi nghĩa giành chính quyền về tay Nhân
dân; phản ánh đúng xu thế tất yếu của lịch sử, đáp ứng kịp thời yêu cầu, nguyện
vọng của quần chúng nhân dân, là ngọn lửa dấy lên cao trào Đồng khởi
(1959-1960) làm xoay chuyển tình thế cách mạng miền Nam, mở đầu những thắng lợi
của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.
2.
Giai đoạn từ năm 1961 đến giữa năm 1965
Đầu năm 1961, Tổng thống Mỹ
Kennơđi chính thức thông qua chiến lược “Chiến tranh đặc biệt”, thực chất là
“dùng người Việt đánh người Việt” với công thức: lực lượng ngụy Sài Gòn cộng vũ
khí, trang bị và cố vấn Mỹ. Mỹ dùng quân đội ngụy tay sai làm công cụ tiến hành chiến tranh, càn quét
dồn dân vào ấp chiến lược, đưa 10 triệu nông dân miền Nam vào các trại tập
trung, “Ấp chiến lược”, tách lực lượng cách mạng ra khỏi Nhân dân.
Để đối phó
với chiến lược mới của địch, ngày 31/01/1961, Bộ Chính trị đã ra Chỉ thị “về
phương hướng và nhiệm vụ công tác trước mắt của cách mạng miền Nam”. Ngày
15/2/1961, các tổ chức vũ trang miền Nam đã thống nhất thành “Quân giải
phóng miền Nam Việt Nam”. Ở miền Bắc, thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ
nhất, các phong trào thi đua sôi nổi “Tất cả vì miền Nam ruột thịt” ở
khắp các địa phương, các cấp, các ngành đã đưa cách mạng miền Bắc trở thành căn
cứ địa vững chắc, không ngừng tăng cường chi viện sức người, sức của cho tiền
tuyến lớn miền Nam.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, cuộc đấu
tranh của nhân dân miền Nam chuyển sang giai đoạn mới, từ khởi nghĩa từng phần
lên chiến tranh cách mạng, kết hợp song song đấu tranh vũ trang và đấu tranh chính
trị, đánh địch bằng cả quân sự và chính trị, kết hợp ba mũi giáp
công, trên cả ba vùng chiến lược, làm phá sản chiến lược "Chiến tranh
đặc biệt" của đế quốc Mỹ và tay sai.
Ngày
02/01/1963, chiến thắng Ấp Bắc (Mỹ Tho) đánh bại chiến thuật “trực thăng vận”
và “thiết xa vận” của địch, với lực lượng đông hơn ta 10 lần, dấy lên phong
trào “Thi đua Ấp Bắc, giết giặc lập công”. Từ năm 1964 - 1965, quân và
dân ta trên chiến trường miền Nam liên tiếp mở các chiến dịch tiến công, bẻ gãy
nhiều cuộc hành quân càn quét của địch, làm nên những chiến thắng oanh liệt,
như: Bình Giã (2/12/1964 - 3/01/1965), Ba Gia (28/5 - 20/7/1965), Đồng Xoài
(11/5 - 22/7/1965)...
Ngày
05/8/1964, Mỹ cho không quân đánh phá miền Bắc, mở đầu cuộc chiến tranh phá
hoại bằng không quân và hải quân ra miền Bắc hòng ngăn chặn sự chi viện của
“hậu phương lớn” miền Bắc cho “tiền tuyến lớn” miền Nam. Nhờ sự chuẩn bị từ
trước, quân và dân ta đã kịp thời phát hiện, mưu trí, dũng cảm, đánh bại cuộc
tiến công của địch.
Trước những
thắng lợi vang dội của quân và dân ta ở cả hai miền Nam - Bắc, chiến lược
“Chiến tranh đặc biệt” của Mỹ đứng trước sự thất bại hoàn toàn, buộc đế quốc Mỹ
phải ồ ạt đưa quân đội viễn chinh vào miền Nam Việt Nam để thực hiện chiến lược
“Chiến tranh cục bộ”. Từ đây, cách mạng miền Nam chuyển sang giai đoạn mới.
3.
Giai đoạn từ giữa năm 1965 đến hết năm 1968
Chuyển sang chiến lược "Chiến tranh cục bộ", đế
quốc Mỹ sử dụng quân đội Mỹ làm lực lượng cơ động chiến lược để tìm diệt bộ đội
chủ lực ta; dùng chính quyền, quân đội ngụy Sài Gòn để bình định, kìm kẹp Nhân dân,
âm mưu đánh bại cách mạng miền Nam trong vòng 25 đến 30 tháng (từ
giữa năm 1965 đến hết năm 1967); đồng thời, đế quốc Mỹ đẩy
mạnh chiến tranh phá hoại miền Bắc bằng không quân và hải quân.
Ngày 20/7/1965, Chủ tịch Hồ Chí
Minh ra lời kêu gọi cả nước, Người khẳng định quyết tâm của Nhân dân ta “dù
phải chiến đấu 5 năm, 10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa, chúng ta cũng kiên quyết
chiến đấu đến thắng lợi hoàn toàn”. Ngày 17/7/1966, trong Lời kêu gọi
đồng bào và chiến sĩ cả nước, Người khẳng định “Hà Nội, Hải Phòng và một số
thành phố, xí nghiệp có thể bị tàn phá, song nhân dân Việt Nam quyết không sợ!
Không có gì quý hơn độc lập tự do. Đến ngày thắng lợi, nhân dân ta sẽ xây dựng
lại đất nước ta đàng hoàng hơn, to đẹp hơn”.
Trên chiến trường
miền Nam, quân và dân ta đã đánh thắng quân xâm lược Mỹ ngay từ những trận đầu
khi chúng vừa đổ bộ vào. Tiếp theo những trận thắng oanh liệt ở Núi Thành, Vạn
Tường, Plâyme, Bàu Bàng,… quân và dân ta lại đánh bại ba cuộc hành quân lớn của
Mỹ vào miền Đông Nam Bộ, đánh thắng lớn ở các chiến trường Tây Nguyên, miền Tây
khu V, Đường 9, đồng bằng Nam Bộ và các mục tiêu chủ yếu của Mỹ ở các
thành phố lớn. Ở miền Bắc, quân dân ta tiếp tục đánh trả cuộc tiến công
của Mỹ bằng không quân và hải quân, giành những thắng lợi lớn trên
nhiều mặt, bảo đảm giao thông thông suốt, chi viện sức người, sức của ngày
càng lớn cho miền Nam. Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy xuân Mậu Thân 1968 đã giáng
một đòn quyết định vào chiến lược "Chiến tranh cục bộ" của đế
quốc Mỹ, buộc chúng phải xuống thang chiến tranh và ngồi vào bàn đàm phán với
ta tại Hội nghị Paris, mở ra cục diện mới vừa đánh vừa đàm.
- Giai đoạn từ năm 1969 đến năm 1973
Chiến lược “Chiến tranh cục bộ” của đế quốc Mỹ bị phá sản,
chúng thi hành chiến lược "Việt Nam hoá chiến tranh", từng bước mở
rộng chiến tranh sang Campuchia, Lào; thực hiện chiến tranh hủy diệt và nhiều
âm mưu, thủ đoạn thâm độc nhằm giành dân, bóp nghẹt để làm suy yếu cuộc kháng
chiến của Nhân dân ta trên cả hai miền Nam - Bắc. Quân và dân ta phối hợp với
quân, dân Lào, Campuchia từng bước đánh bại chiến lược "Việt Nam hoá chiến
tranh" của Mỹ. Những thắng lợi của chiến tranh cách mạng ba nước Đông
Dương trong hai năm 1970 - 1971 đã tạo thuận lợi cho cuộc kháng chiến
chống Mỹ, cứu nước của Nhân dân ta.
Nhờ chuẩn bị tốt lực lượng, nắm đúng thời cơ, quân và dân
ta đã liên tiếp giành thắng lợi lớn trên chiến trường, nhất là cuộc tiến công
chiến lược năm 1972 và đánh bại cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ hai ra miền
Bắc bằng máy bay B52 của Mỹ, làm nên chiến thắng oanh liệt “Hà Nội - Điện Biên Phủ trên không”,
thay đổi cục diện chiến trường, cục diện chiến tranh theo thế có lợi cho ta.
Trong đàm phán, chúng ta cũng khôn khéo tiến công địch, phối hợp chặt chẽ giữa
"đánh và đàm", buộc Mỹ phải ký Hiệp định Paris năm 1973 về kết thúc
chiến tranh, lập lại hòa bình tại Việt Nam, rút hết quân Mỹ và quân các nước
chư hầu Mỹ ra khỏi miền Nam nước ta, làm tương quan lực lượng thay đổi có lợi
cho ta, tạo điều kiện cơ bản nhất để tiến tới “đánh cho ngụy nhào”, giành thắng
lợi cuối cùng.
5.
Giai đoạn từ cuối năm 1973 đến năm 1975
Sau khi ký Hiệp định Paris, mặc dù buộc phải rút hết
quân nhưng đế quốc Mỹ vẫn tiếp tục âm mưu dùng chính quyền, quân đội ngụy Sài
Gòn làm công cụ chiến tranh. Mỹ tăng cường chi viện tiền của, vũ khí, phương
tiện chiến tranh cho quân ngụy lấn đất, giành dân, khống chế Nhân
dân, thực hiện các hoạt động ngoại giao xảo quyệt để ngăn chặn sự phát triển
của cách mạng miền Nam. Đến tháng 5/1973, xu thế chống phá Hiệp định Paris của quân đội ngụy Sài Gòn ngày càng
tăng.
Tháng
7/1973, Ban Chấp hành Trung ương
Ðảng đã họp Hội nghị lần thứ 21, ra Nghị quyết Về thắng lợi vĩ đại của cuộc
kháng chiến chống Mỹ, cứu nước và nhiệm vụ của cách mạng miền nam trong giai đoạn
mới, trong đó khẳng định “Con
đường của cách mạng miền Nam là con đường bạo lực cách mạng. Bất kể trong tình
hình nào, ta cũng phải nắm vững thời cơ, giữ vững đường lối chiến lược tiến
công và chỉ đạo linh hoạt để đưa cách mạng miền Nam tiến lên” và đề ra các nhiệm vụ lớn cho hai miền Nam -
Bắc. Thắng lợi toàn Miền, nhất là của miền Đông Nam Bộ, đặc biệt là
chiến thắng Phước Long cuối năm 1974 - đầu năm 1975 càng cho thấy thực tế suy
yếu của quân ngụy Sài Gòn và khả năng Mỹ khó đưa quân trở lại Việt Nam. Đảng ta
nhận định thời cơ giải phóng miền Nam đã đến, quyết định tiến hành mở cuộc tiến
công chiến lược nhằm giải phóng hoàn toàn miền Nam, đồng thời tiến hành giành
lại chủ quyền trên các vùng biển, đảo và quần đảo phía Nam của Tổ quốc.
Sau khi hoàn thành chuẩn bị chiến lược cả về thế và lực,
cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975 được tiến hành từ ngày 4/3/1975
với các chiến dịch: Chiến dịch Tây Nguyên mở đầu bằng trận đột phá chiến lược
đánh chiếm Buôn Ma Thuột, giải phóng
Tây Nguyên; hai chiến dịch giải phóng Huế - Đà Nẵng và Chiến dịch Hồ Chí Minh
lịch sử giải phóng Sài Gòn - Gia Định với nhiều bước phát triển nhảy vọt.
- Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử
(26/4 - 30/4/1975)
Sau một tháng Tổng tiến công và
nổi dậy mạnh mẽ, liên tục, quân và dân ta đã giành được những thắng lợi to lớn,
toàn diện cả về chính trị và quân sự. Trong khi đó, địch bị mất toàn bộ Quân
khu 1, Quân khu 2, một nửa sinh lực của Quân đội Sài Gòn bị tiêu diệt, rơi vào tình
thế đi đến tan rã hầu như không cứu vãn nổi. Chúng ra sức tổ chức lực lượng,
tích cực phòng ngự, lấy việc bảo vệ Sài Gòn làm mục đích chiến lược để có thể
làm điều kiện mặc cả đối với ta. Sau khi lần lượt tổ chức các tập đoàn phòng
ngự từ xa nhưng đều bị ta đập tan; quân đội ngụy Sài Gòn tập trung xây dựng
tuyến phòng thủ cuối cùng là Sài Gòn - Gia Định.
Từ nhận định dù Mỹ có chi viện cũng
không cứu vãn được sự sụp đổ của quân ngụy, Bộ Chính trị quyết định mở cuộc tổng
tiến công và nổi dậy giải phóng Sài Gòn trong thời gian sớm nhất, tốt nhất là
trong tháng 4/1975, trước mùa mưa, không thể để chậm. Ngày 07/4/1975, Đại tướng
Võ Nguyên Giáp, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Quân ủy Trung ương, Bộ trưởng Bộ
Quốc phòng, Tổng Tư lệnh ra lệnh động viên “Thần tốc, thần tốc hơn nữa, táo
bạo, táo bạo hơn nữa, tranh thủ thời gian từng phút, xốc tới mặt trận, giải
phóng miền Nam. Quyết chiến và toàn thắng”.
Ngày 14/4/1975, theo đề nghị của Đảng ủy - Bộ Tư lệnh chiến dịch và Quân ủy
Trung ương, Bộ Chính trị đồng ý chiến dịch giải phóng Sài Gòn lấy tên là “Chiến
dịch Hồ Chí Minh”. Các lực lượng chiến lược của ta tham gia chiến dịch lịch sử
gồm 4 quân đoàn (1,2,3,4) và Đoàn 232 (tương đương quân đoàn), các đơn vị binh
chủng tăng - thiết giáp, đặc công, công binh, thông tin, pháo binh, không quân,
hải quân với đầy đủ binh khí kỹ thuật cùng các đơn vị biệt động, bộ đội địa
phương, dân quân du kích chuẩn bị tiến về giải phóng Sài Gòn - Gia Định.
17 giờ ngày
26/4/1975, quân ta được lệnh tổng công kích; 5 cánh quân đồng loạt tiến công
trên 5 hướng: Hướng Bắc - Quân đoàn 1 (Binh đoàn Quyết Thắng); hướng Tây Bắc -
Quân đoàn 3 (Binh đoàn Tây Nguyên); hướng Đông Nam - Quân đoàn 2 (Binh đoàn Hương
Giang); hướng Đông - Quân đoàn 4 (Binh đoàn Cửu Long); hướng Tây và Tây Nam -
Đoàn 232 và Sư đoàn 8 (Quân khu 8), nhanh chóng đánh chiếm các mục tiêu trọng
yếu của địch. Trước cuộc tiến công như vũ bão của quân và dân ta, 11 giờ 30
phút ngày 30/4/1975, quân ta đánh chiếm Dinh Độc Lập, chính quyền ngụy Sài Gòn
đầu hàng không điều kiện, cờ giải phóng phấp phới tung bay trên nóc tòa nhà
chính của Dinh Độc Lập. Chiến dịch Hồ Chí Minh toàn thắng.
- Giành lại chủ quyền lãnh thổ
trên các vùng biển, đảo, quần đảo phía Nam của Tổ quốc
Cùng với
giải phóng trên đất liền, Bộ Tổng Tư lệnh ra lệnh nghiên cứu thời cơ để giành
lại chủ quyền các đảo, quần đảo do quân đội ngụy Sài Gòn chiếm đóng ở biển Đông,
đây là phần lãnh thổ rất quan trọng, có vị trí chiến lược về quân sự và kinh tế
không thể tách rời của Tổ quốc. Ngày 14/4/1975, các đơn vị ta nổ súng tiến công
các đảo thuộc vùng biển phía Nam của Tổ quốc, trong đó có quần đảo Trường Sa,
giành lại chủ quyền các đảo vào ngày 29/4/1975.
Từ ngày 30/4 đến đầu tháng 5/1975,
bộ đội chủ lực và các lực lượng vũ trang tiến công, kết hợp với sự nổi dậy của
quần chúng nhân dân đã giải phóng hoàn toàn các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long,
vùng biển, giải phóng Côn Đảo, Phú Quốc và các đảo ở vùng biển Tây Nam Tổ quốc.
III. Ý NGHĨA LỊCH SỬ, NGUYÊN
NHÂN THẮNG LỢI VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM
1. Ý nghĩa lịch sử
Thắng lợi của quân và dân ta trong cuộc
kháng chiến chống Mỹ, cứu nước là thành quả vĩ đại nhất trong sự nghiệp giải
phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc do Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh
lãnh đạo; là trang sử hào hùng và chói lọi trên con đường dựng nước và giữ nước
mấy nghìn năm của dân tộc. Chúng ta đã hoàn thành được sứ mệnh lịch sử vẻ vang
là giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước, mở ra kỷ nguyên mới của
dân tộc - kỷ nguyên của độc lập, thống nhất và cùng nhau xây dựng một nước Việt
Nam xã hội chủ nghĩa “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Đây cũng là thắng lợi tiêu
biểu của lực lượng cách mạng thế giới; góp phần thúc đẩy mạnh mẽ cuộc đấu tranh
của nhân dân thế giới vì mục tiêu độc lập, hòa bình, dân chủ và tiến bộ xã hội;
cổ vũ, động viên, khích lệ các dân tộc đang tiến hành công cuộc giải phóng dân
tộc, chống chủ nghĩa đế quốc, mở đầu sự phá sản của chủ nghĩa thực dân mới trên
toàn thế giới. Đánh giá về tầm vóc thắng lợi của sự kiện lịch sử này, Đại hội
Đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng (12/1976) khẳng định: Năm tháng sẽ trôi qua, nhưng thắng lợi của
nhân dân ta trong sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước mãi mãi được ghi vào
lịch sử dân tộc ta như một trong những trang chói lọi nhất, một biểu tượng sáng
ngời về sự toàn thắng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng và trí tuệ con người, và
đi vào lịch sử thế giới như một chiến công vĩ đại của thế kỷ XX, một sự kiện có
tầm quan trọng quốc tế to lớn và tính thời đại sâu sắc.
2. Nguyên nhân thắng lợi
Thắng
lợi vĩ đại của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước bắt nguồn từ những nguyên
nhân chủ yếu:
Một là, sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng
và Bác Hồ kính yêu với đường lối chính trị, quân sự, độc lập, tự chủ đúng đắn,
sáng tạo, phương pháp đấu tranh linh hoạt, phù
hợp với mỗi giai đoạn của cuộc kháng chiến.
Hai là, tinh thần chiến đấu kiên cường, anh dũng của quân và
dân cả nước, đã vượt qua muôn vàn khó khăn, gian khổ, hy sinh, lập nên những
chiến công oanh liệt, “đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào”.
Ba là, sức
mạnh tổng hợp của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, thống nhất ý chí và hành động;
của lòng yêu nước nồng nàn - khát vọng hòa bình, độc lập, tự do và thống nhất đất
nước của đồng bào ta.
Bốn là, lòng trung thành tuyệt đối và
tinh thần quyết chiến, quyết thắng của các Lực lượng vũ trang nhân dân với sự
chỉ huy thao lực của các vị Tướng lĩnh tài ba.
Năm là, tình hữu nghị và sự ủng hộ, giúp đỡ to lớn, hiệu quả của bạn bè quốc tế,
của liên minh chiến đấu giữa ba nước Việt Nam, Lào, Campuchia, sự ủng hộ của
nhân dân và các lực lượng yêu chuộng hoà bình, tiến bộ trên thế giới.
3. Bài học kinh nghiệm
Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ,
cứu nước cũng giúp toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta đúc kết những bài học kinh
nghiệm quý báu, đó là: (1) Kiên định
quyết tâm, quyết đánh, quyết thắng đế quốc Mỹ xâm lược; (2) Đường lối kháng chiến chống Mỹ, cứu nước đúng đắn, sáng tạo, độc
lập, tự chủ; (3) Nghệ thuật tiến
hành chiến tranh nhân dân sáng tạo; (4)
Tổ chức lực lượng cả nước đánh giặc; (5)
Căn cứ địa cách mạng, hậu phương kháng chiến vững chắc; (6) Đoàn kết, liên minh với nhân dân Lào, nhân dân Campuchia; (7) Đoàn kết quốc tế, phát huy sức mạnh
của thời đại; (8) Bồi dưỡng và phát
huy nhân tố con người.
IV. THÀNH TỰU PHÁT TRIỂN
50 NĂM GIẢI PHÓNG MIỀN NAM, THỐNG NHẤT ĐẤT NƯỚC - TIỀN ĐỀ CHO KỶ NGUYÊN VƯƠN
MÌNH CỦA DÂN TỘC
1. Sau khi đất nước thống nhất, nước ta phải đối mặt với những hậu
quả nặng nề của 30 năm chiến tranh để lại. Một sự kiện quan trọng diễn ra sau ngày miền Nam giải phóng là cuộc
chiến tranh bảo vệ biên giới Tây Nam và cuộc chiến đấu bảo vệ biên giới phía
Bắc, giữ vững độc lập, chủ quyền, lãnh thổ thiêng liêng của Tổ quốc; đồng thời,
làm tròn nghĩa vụ quốc tế cao cả. Trong đó, cuộc chiến tranh ở biên giới Tây
Nam do tập đoàn phản động Pôn Pốt - Iêng Xari ở Campuchia gây ra ngay sau khi
Việt Nam vừa mới giành thắng lợi trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.
Cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới phía Tây Nam của Việt Nam chỉ kéo dài 2 năm
(từ năm 1977 đến 1979) nhưng hậu quả kinh tế, xã hội của nó khá nặng nề đối với
Việt Nam. Cuối những năm 70, đầu những năm 80 của thế kỷ XX, khủng hoảng kinh
tế - xã hội diễn ra gay gắt, tỉ lệ lạm phát có lúc lên đến 774,7%, đời sống Nhân
dân hết sức khó khăn, thiếu lương thực triền miên, khoảng ¾ dân số sống ở mức
nghèo khổ.
Phát huy tinh thần yêu nước, tự lực tự cường cùng ý chí
quyết tâm, bản lĩnh, sáng tạo vượt qua mọi khó khăn, thách thức, nắm bắt thuận
lợi, thời cơ; sau gần 50 năm giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước và gần 40
năm thực hiện công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập quốc
tế, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng,
tạo nhiều dấu ấn nổi bật.
- Về chính trị: Việt Nam giữ vững
độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và định hướng xã hội chủ
nghĩa; giữ vững vai trò lãnh đạo, cầm quyền của Đảng, bảo đảm vai trò quản lý
hiệu quả của Nhà nước, phát huy mạnh mẽ quyền làm chủ của Nhân dân; bảo đảm cao
nhất lợi ích quốc gia - dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của Hiến
chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác, cùng có lợi. Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của Nhân dân, do Nhân dân,
vì Nhân dân do Đảng lãnh đạo tiếp tục được hoàn thiện; có sự phân công rành
mạch, phối hợp chặt chẽ, kiểm soát hiệu quả giữa các cơ quan nhà nước trong
việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp dưới sự giám sát của Nhân
dân.
- Về kinh tế: Kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa phát triển mạnh mẽ. Quy mô nền kinh tế năm 2023 đạt
433,7 tỷ USD, đứng thứ 35 trên thế giới, đứng thứ 5 trong ASEAN, GDP bình quân
đầu người đạt 4.323 USD, gấp 58 lần sau ba thập kỷ, tỷ lệ hộ nghèo giảm từ 58%
năm 1993 xuống còn 2,93% năm 2023. Kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định, lạm phát được
kiểm soát, các cân đối lớn của nền kinh tế được bảo đảm, duy trì tăng trưởng
kinh tế khá cao so với khu vực và thế giới. Năng suất lao động liên tục tăng, đời
sống vật chất và tinh thần của Nhân dân được nâng cao rõ rệt.
Năm 2024, tăng trưởng cả năm đạt 7,09% (thuộc nhóm số ít
các nước có tốc độ tăng trưởng cao trong khu vực và thế giới); kinh tế vĩ mô
tiếp tục ổn định, lạm phát được kiểm soát dưới 4%, các cân đối lớn được bảo đảm
và có thặng dư. Quy mô GDP theo giá hiện hành ước đạt 11.511,9 nghìn tỷ đồng,
tương đương 476,3 tỷ USD; GDP bình quân đầu người theo giá hiện hành ước đạt
114 triệu đồng/người, tương đương 4.700 USD; năng suất lao động của toàn nền
kinh tế năm 2024 theo giá hiện hành ước đạt 221,9 triệu đồng/lao động. Giá trị
thương hiệu quốc gia Việt Nam năm 2024 đạt 507 tỷ USD, xếp thứ 32/193, tăng 1
bậc so với năm 2023. Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu ước đạt 786,29 tỷ USD tăng
15,4%, xuất siêu 24,77 tỷ USD, là năm thứ 9 liên tiếp xuất siêu. Thu NSNN ước
cả năm đạt 2.037,5 nghìn tỷ đồng tăng 19,8% so với dự toán. Đầu tư phát triển
đạt kết quả tích cực. Nhiều công trình giao thông quan trọng, quy mô lớn được
đầu tư, nâng cấp, bảo đảm kết nối giữa các trung tâm kinh tế lớn, các vùng miền
trong cả nước và giao thương quốc tế. Việt Nam nằm trong nhóm 15 nước đang phát
triển thu hút FDI lớn nhất thế giới với 38,23 tỷ USD đăng ký, vốn thực hiện đạt
25,35 tỷ USD, tăng 9,4%, cao nhất trong nhiều năm qua; khách du lịch nước ngoài
đến Việt Nam ước đạt 17,6 triệu lượt, tăng 39,5% so với năm 2023. Cơ cấu nền
kinh tế chuyển dịch tích cực: kinh tế số, kinh tế xanh đóng vai trò ngày càng
quan trọng. Các lĩnh vực chủ yếu đều tăng trưởng, trong đó công nghiệp phục hồi
tích cực, là động lực quan trọng, dẫn dắt tăng trưởng.
- Các lĩnh vực
văn hóa, xã hội, giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, y tế...
đều có sự phát triển vượt bậc, định hình hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị văn
hóa, hệ giá trị gia đình và chuẩn mực con người Việt Nam. Đến nay có gần 99% số
người lớn Việt Nam biết đọc, biết viết, số sinh viên đại học, cao đẳng tăng gần
20 lần, phổ cập giáo dục trung học cơ sở từ năm 2014... Tiềm lực khoa học và
công nghệ của đất nước được nâng lên. Chính sách an sinh xã hội, phúc lợi xã
hội; chính sách dân tộc, chính sách tôn giáo, chính sách người có công, chính
sách đối với người Việt Nam ở nước ngoài... được thực hiện đồng bộ, đạt kết quả
tích cực. Sức khỏe của Nhân dân được quan tâm chăm sóc; việc khám, chữa bệnh
tiếp cận được nhiều kỹ thuật tiên tiến trên thế giới.
Năm 2024, an sinh xã hội được tập trung bảo đảm; đời sống
người dân được cải thiện. Tỷ lệ hộ nghèo giảm còn 1,93%. Theo xếp hạng của Liên
hợp quốc, chỉ số hạnh phúc năm 2024 của Việt Nam tăng 11 bậc, xếp thứ 54/143.
Chất lượng khám, chữa bệnh từng bước được nâng lên; tỷ lệ bao phủ bảo hiểm y tế
tăng từ 90,2% năm 2020 lên 94,1% năm 2024. Chất lượng giáo dục các cấp được cải
thiện. Ứng dụng khoa học - công nghệ được tăng cường; hệ sinh thái khởi nghiệp,
đổi mới sáng tạo được hình thành và phát triển. Chất lượng nguồn nhân lực được
nâng lên ; lực lượng lao động, tỷ lệ lao động có việc làm tăng. Các chính sách
dân tộc, tôn giáo, tín ngưỡng được ưu tiên, chú trọng; công tác chăm sóc, bảo
vệ trẻ em, giáo dục thanh, thiếu niên, phát huy vai trò người cao tuổi, bình
đẳng giới, vì sự tiến bộ của phụ nữ, thông tin truyền thông... được tăng cường.
Chỉ số phát triển bền vững (SDGs) của Việt Nam năm 2024 xếp thứ 54/166, tăng 1
bậc so với năm 2023.
- Về quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc: Độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ
Tổ quốc và lợi ích quốc gia - dân tộc tiếp tục được bảo vệ vững chắc; gắn kết chặt chẽ, hài hòa
giữa phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội với củng cố quốc phòng - an ninh; tiềm lực quốc phòng, an ninh được củng cố, tăng cường
trên nhiều mặt. Xây dựng thế trận lòng dân gắn với xây dựng thế trận quốc phòng
toàn dân và thế trận an ninh nhân dân vững chắc. Quân
đội nhân dân và Công an nhân dân được xây dựng chính quy, tinh nhuệ, hiện đại,
vững mạnh về chính trị, là lực lượng nòng cốt để bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa. Hình thành thế trận an ninh nhân dân, bố trí chặt chẽ từ
Trung ương đến cơ sở; xây dựng công an cấp xã, lực lượng tham gia bảo vệ trật
tự, an ninh, đưa công an nhân dân gần dân, sát dân để phục vụ. Có đối sách,
giải pháp phù hợp, xử lý kịp thời, có hiệu quả các tình huống, không để xảy ra
bị động, bất ngờ, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để xây dựng và phát
triển đất nước.
- Về đối ngoại: Hội
nhập quốc tế ngày càng đi vào chiều sâu, hiệu quả, đạt nhiều thành tựu quan
trọng, có ý nghĩa chiến lược và lâu dài, tạo cục diện đối ngoại mới, rộng mở,
thuận lợi cho an ninh và phát triển, nâng cao vị thế đất nước, thể hiện vai trò
tiên phong trong việc tạo lập và giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, huy
động nguồn lực bên ngoài cho phát triển đất nước. Nâng cấp, nâng tầm quan hệ
với các đối tác chủ chốt, các nước lớn; đảm nhiệm thành công nhiều trọng trách
quốc tế; đề xuất nhiều sáng kiến, giải pháp tại các cơ chế hợp tác đa phương
quan trọng. Ngoại giao kinh tế được đẩy mạnh, khai thác hiệu quả các cơ hội hợp
tác kinh tế. Mở rộng, làm sâu sắc thêm quan hệ ngoại giao với 194 quốc gia,
vùng lãnh thổ, trong đó có 3 nước quan hệ đặc biệt, 9 nước đối tác chiến lược
toàn diện, 19 nước đối tác chiến lược (bao gồm cả 9 nước đối tác chiến lược
toàn diện) và 13 nước đối tác toàn diện, trong đó đã thiết lập quan hệ đối tác
chiến lược toàn diện hoặc đối tác chiến lược với tất cả 5 nước Ủy viên Thường
trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc; mở rộng quan hệ kinh tế - thương mại với
230 quốc gia và vùng lãnh thổ. Việt Nam đã và đang thể hiện tốt vai trò là bạn,
là đối tác tin cậy trong cộng đồng quốc tế; có nhiều sáng kiến, đề xuất, chủ
động, tích cực tham gia có hiệu quả vào các hoạt động của ASEAN, tổ chức Liên
hợp quốc và nhiều tổ chức quốc tế khác.
2. Sau
giải phóng, là vùng đất đã trải qua hơn 20
năm du nhập lối sống Mỹ nên vấn đề tệ nạn xã hội ở Nam Bộ khá nan giải với số
lượng lớn người thất nghiệp, thương, phế binh, người nhập cư, người nghiện ma
túy, trẻ mồ côi, người ăn xin, cờ bạc buôn lậu… Khắc phục khó khăn để vươn lên
cùng cả nước, sau 50 năm, Nam Bộ đã đạt được nhiều khởi sắc, cơ cấu kinh tế các vùng tiếp tục chuyển dịch tích cực; giá trị văn hóa các dân tộc được bảo tồn, kế thừa và phát
huy, một số di tích văn hoá lịch sử được tu bổ, tôn tạo; hệ thống giáo dục, đào
tạo được quan tâm đầu tư, mạng lưới y tế được củng cố; bảo vệ môi trường, bảo
tồn thiên nhiên, đa dạng sinh học và bảo vệ nguồn nước được chú trọng, quốc
phòng - an ninh được giữ vững, đời sống Nhân dân ngày được nâng cao, trong đó tốc
độ tăng trưởng GRDP các vùng của Nam Bộ những năm gần đây đạt mức khá.
Riêng với Thành phố Hồ Chí
Minh, vinh dự mang tên Bác từ năm 1976, Thành phố đã bứt phá mạnh mẽ, đạt được nhiều
kết quả quan trọng, toàn diện trên các lĩnh vực. Đặc biệt, với quy mô và tiềm
lực vượt trội, Thành phố Hồ Chí Minh đã cùng cả nước vượt qua nhiều cuộc khủng
hoảng kinh tế thế giới, cơ cấu kinh tế tiếp tục chuyển dịch theo hướng tích cực
gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, từng bước phát triển theo chiều sâu dựa
trên nền tảng ứng dụng khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo. Sự nghiệp giáo
dục - đào tạo, chăm sóc sức khoẻ Nhân dân, phát triển văn hoá, xã hội đạt nhiều
kết quả quan trọng; đời sống vật chất và tinh thần của Nhân dân không ngừng
nâng lên, sớm xác lập và giữ vững vai trò đầu tàu, trung tâm kinh tế lớn nhất
cả nước và ngày càng có vị trí quan trọng trong khu vực Đông Nam Á.
V. PHÁT HUY TINH THẦN ĐẠI THẮNG MÙA XUÂN 1975 TRONG
SỰ NGHIỆP XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC HIỆN NAY
Kỷ
niệm 50 năm Ngày Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước là dịp chúng ta ôn
lại những trang sử hào hùng của dân tộc, nhìn lại chặng đường phấn đấu xây dựng
và phát triển đất nước; đồng thời nhận thức sâu sắc hơn giá trị, những bài học
kinh nghiệm được tổng kết từ trong thực tiễn đấu tranh của dân tộc để tiếp thêm
sức mạnh, ý chí quyết tâm trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã
hội chủ nghĩa, biến những thành tựu vẻ vang trong quá khứ thành động lực để
hoàn thành sứ mệnh lịch sử trong kỷ nguyên mới - kỷ nguyên vươn mình, phát triển
phồn vinh, văn minh, hạnh phúc, thịnh vượng của dân tộc Việt Nam.
1. Kiên định và vận dụng, phát triển
sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, lý luận về đường lối đổi
mới; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; kiên định đẩy mạnh
toàn diện công cuộc đổi mới; kiên định các nguyên tắc xây dựng Đảng. Gắn kết
chặt chẽ tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận với xây dựng và tổ chức thực
hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước để xây
dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
2. Nhận diện sớm, phát huy nhanh mọi
thời cơ, thuận lợi, vượt qua mọi khó khăn, thách thức để tiếp tục phát triển
nhanh và bền vững đất nước; gắn kết chặt chẽ và triển khai đồng bộ các nhiệm vụ
chiến lược, trong đó: Phát triển kinh tế, xã hội, bảo vệ môi trường là trung
tâm; xây dựng Đảng là then chốt; phát triển văn hóa, con người là nền tảng; tăng
cường quốc phòng, an ninh và đẩy mạnh đối ngoại, hội nhập quốc tế là trọng yếu,
thường xuyên. Khơi dậy mạnh mẽ trong toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta lòng yêu
nước cách mạng, tinh thần “tự chủ, tự
tin, tự lực, tự cường, tự hào dân tộc”, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc vững
bước vào kỷ nguyên mới, đạt mục tiêu chiến lược đến giữa thế kỷ XXI, nước ta
trở thành nước phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
3. Đẩy mạnh, xây dựng, hoàn thiện thể
chế phát triển nhanh, bền vững đất nước, kiên quyết tháo gỡ các điểm nghẽn, nút
thắt, khơi thông và giải phóng mọi nguồn lực, phát huy mọi động lực. Đổi mới
mạnh mẽ, hiệu quả mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế, đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa trên nền tảng khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo
và nguồn nhân lực chất lượng cao. Tự chủ chiến lược phát triển; phát huy nguồn
nội lực là chủ đạo, nguồn lực quốc tế là quan trọng; kinh tế nhà nước giữ vai
trò chủ đạo; kinh tế tập thể không ngừng được củng cố và phát triển; kinh tế
nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của
nền kinh tế quốc dân; kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng của nền kinh
tế; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài được khuyến khích phát triển. Đồng bộ và
đột phá trong xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội; tập trung phát triển
lực lượng sản xuất mới (kết hợp giữa nguồn nhân lực chất lượng cao với tư liệu
sản xuất mới, hạ tầng chiến lược về giao thông, chuyển đổi số, chuyển đổi xanh)
gắn với hoàn thiện quan hệ sản xuất. Đẩy mạnh công nghệ chiến lược, chuyển đổi
số, chuyển đổi xanh, lấy khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo làm động lực
chính cho phát triển.
4.
Tập trung xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị thực sự trong sạch,
vững mạnh toàn diện; nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền, sức chiến đấu của
Đảng; tăng cường kiểm soát quyền lực, kiên quyết, kiên trì đấu tranh phòng,
chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực; tiếp tục nghiên cứu, sắp xếp tinh gọn đơn
vị hành chính các cấp; hoàn thiện nâng cao hiệu năng, hiệu lực, hiệu quả hoạt
động của các cơ quan, tổ chức trong hệ thống chính trị gắn với cơ cấu lại và
xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức đủ phẩm chất, năng lực, uy tín,
ngang tầm nhiệm vụ. Kiên định lập trường, quan điểm và thực hành “Dân là gốc”,
“Nhân dân là chủ thể, trung tâm của công cuộc đổi mới”, thắt chặt mối quan hệ
giữa Đảng với Nhân dân; tiếp tục xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng; thực hiện
nhất quán nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân; bảo đảm thượng
tôn Hiến pháp và pháp luật; thực hành và phát huy rộng rãi dân chủ xã hội chủ
nghĩa, vai trò làm chủ và chủ thể của Nhân dân là những nhân tố có ý nghĩa
quyết định thành công nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc giai đoạn mới.
Đổi mới mạnh mẽ việc ban hành và quán triệt, thực hiện nghị
quyết của Đảng; xây dựng các tổ chức cơ sở đảng, đảng viên; đổi mới công tác
kiểm tra, giám sát; đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số trong
các hoạt động của Đảng và Nhà nước. Đổi mới quy trình xây dựng, tổ chức thực
hiện pháp luật trên cơ sở bám sát thực tiễn, đẩy mạnh phân cấp, phân quyền với
phương châm "địa phương quyết, địa phương làm, địa phương chịu trách
nhiệm"; cải cách triệt để thủ tục hành chính, tạo thuận lợi cao nhất cho
người dân và doanh nghiệp. Tập trung kiểm soát quyền lực trong xây dựng pháp
luật, siết chặt kỷ luật, kỷ cương, đề cao trách nhiệm, nhất là trách nhiệm
người đứng đầu, kiên quyết phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực,
"lợi ích nhóm". Chủ động, tích cực, khẩn trương xây dựng hành lang
pháp lý cho những vấn đề mới, xu hướng mới, tạo khung khổ pháp lý để thực hiện
thành công cuộc cách mạng về chuyển đổi số, tạo đột phá cho phát triển đất nước
những năm tiếp theo.
5. Luôn giữ vững và tăng cường sự lãnh
đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng; sự quản lý, điều hành tập trung,
thống nhất của Nhà nước đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; xây dựng
"thế trận lòng dân", lấy "yên dân" là nhân tố quyết định
mọi thắng lợi của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Kiên quyết, kiên trì,
chủ động tạo lập thời cơ, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và
toàn vẹn lãnh thổ; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định và điều kiện thuận lợi
để xây dựng, phát triển đất nước. Kết hợp chặt chẽ hai nhiệm vụ chiến lược xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc; tăng cường đầu tư thích đáng cho việc xây dựng nền quốc
phòng toàn dân, nền an ninh nhân dân, lực lượng vũ trang nhân dân, đáp ứng yêu
cầu bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa; giữ nước từ khi nước chưa nguy; tuyệt đối
không để bị động, bất ngờ trong mọi tình huống.
6. Giữ vững độc lập tự chủ, bảo đảm cao
nhất lợi ích của quốc gia - dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của luật
pháp quốc tế. Kiên trì và sáng tạo thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự
chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa; chủ động, tích cực hội nhập quốc tế toàn diện,
sâu rộng, hiệu quả. Chủ động tham gia vào chuỗi giá trị khu vực và toàn cầu;
phấn đấu trở thành thành viên tích cực, có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế,
vì lợi ích chung của hòa bình, hợp tác, phát triển của khu vực và trên thế
giới./.
BAN TUYÊN GIÁO VÀ DÂN VẬN TRUNG ƯƠNG